Người Việt Xấu Xí

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Suy nghĩ thử xem;tại sao "nó" lại thành ra như thế?.Phải biết tại sao "nó" thành ra như thế thì mới làm cho "nó" khác đi được.(Good hơn)
Để trả lời cho câu hỏi này.Mình xin mạo phép đăng loạt bài về "Người Việt Xấu xí"
(Tất nhiên thì mọi người có quyền đánh giá này-nọ-kia Nhưng đây chính là sự thật)


Đây là loạt bài của những trí thức.Không phải là phê bình mà là những đánh giá khoa học về những thói quen tật xấu của người Việt Nam bằng những nhận xét và dẫn chứng lịch sử cụ thể.
Điều Đáng buồn là:Những đánh giá này có từ rất lâu nhưng vẫn còn nguyên tính thời sự.

Những Tính xấu bao gồm:

Thói tục di truyền (Huỳnh Thúc Kháng 1929)
Ỷ lại như một căn bệnh (Lưu Trọng Lư,năm 1939)
Tính ỷ lại (Phan Bội Châu - 1928)
Quá tin ở những điều viển vông(Phan Bội Châu – 1928)
Tư tưởng gia nô (Phan Bội Châu - 1928)
Đời sống hàng ngày hủ bại tầm thường (Nguyễn Văn Vĩnh,1914)
Cái gì cũng giả (Ngô Tất Tố,1938)
Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường (Dương Bá Trạc,1925)
Thiết thực nhưng lại phù phiếm (Đào Duy Anh 1938)
Hay tự ái và hiếu danh (Nguyễn Văn Huyên, 1944)
Quan cao chức lớn cũng sống như kẻ hạ lưu (Tản Đà,1927)
Trì trệ và bất lực (Lương Đức Thiệp, 1944)
Hay nghi ngờ và làm hại nhau trong công việc (Phan Bội Châu, 1908)
Sự suy đồi toàn diện (Phan Chu Trinh,năm 1905)
Mê muội hưởng lạc (Nguyễn Trường Tộ, 1867)
Lười nhác, ốm yếu (Phan Bội Châu,1926)
Khổ vì hội hè (Phan Kế Bính, 1915)
Nạn “thần mãn” (Ngô Tất Tố,1938)
Co mình trong hủ lậu (Văn minh tân học sách, 1904)
Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò (Phạm Quỳnh 1931)
Tùy tiện, cẩu thả trong giao lưu, tiếp xúc (Phan Chu Trinh, 1912)
Thạo sử người hơn sử mình (Hoàng Cao Khải, 1914)
Ai cũng học mà chẳng học ai cả (Ngô Đức Kế, Nền quốc văn, 1924)
Dễ học cái dở hơn cái hay (Lương Dũ Thúc,1904)
Xấu làm tốt dốt làm thông (Ngô Đức Kế,1923)
Bắt chước vội vã thêm gây hại (Trần Trọng Kim,1930)
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Ỷ lại như một căn bệnh

Thói tục di truyền (Huỳnh Thúc Kháng, Báo Tiếng dân, năm 1929)

-- Một là, học để làm quan: Người sinh ra ở đời có học mà không khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người mình có cái tính di truyền “đi học cốt để làm quan", cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi ra cách mới, mà người đi học vẫn ôm cái hy vọng làm quan chủ chốt.
-- Hai là, làm quan ăn lót: Làm quan... cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng, thói ăn của dân cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hưởng, tập dữ tính thành(*) không ai cho là điều quái lạ hồ thẹn:
-- Ba là, a dua người quyền quý. Ngu dốt mà cũng tán rằng thông minh, bạo ngược mà cũng tán rằng nhân đức. .. bất cứ việc gì người ra thế nào, đã là quyền quý thì cứ nhắm mắt tán dương.
-- Bốn là, trọng xác thịt(**): Ngoài sự ăn sung mặc sướng ở yên ra, gần như không có tư tưởng gì nữa. Đối với kẻ khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét Nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì sinh lòng hâm mộ, dầu có hại nòi nát giống, mà đạt được mục đích thì cũng không từ.
(*) làm quen mãi rồi thành ra một thuộc tính tự nhiên.
(**) tức là trọng vật chất.



Ỷ lại như một căn bệnh

(Lưu Trọng Lư, Một nền văn chương Việt Nam, năm 1939)


--Tôi không nhớ vị Giáo sư Pháp nào, ở lâu năm bên ta, đã nói: “Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng gắt gao, nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì cái bệnh ỳ lại đã ăn sâu vào trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
--Không phải bây giờ mà từ bao giờ, ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống một cách lười biếng và cẩu thả (...) trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn tư tưởng. Tự tử không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta, ta chỉ muốn hường thụ những của sẵn và cam tâm làm kiếp con ve của thơ ngụ ngôn(*). Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa. Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, chưa có một lúc nào chúng ta là những người Việt Nam cả.

(*) ý nói vui chơi ca hát, không biết tính xa, và sẵn sàng vay mượn để sống qua ngày Lấy tích từ bài thơ ngụ ngôn con ve và con kiến của La Fontaine, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Tính ỷ lại & Quá tin ở những điều viển vông

Tính ỷ lại

(Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân 1928)

--Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đã có Ngô xây - Việc gì vợ góa lo ngày lo đêm. Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô không sang thì vạn tuế thiến thu chắc không bao giờ có tháp. Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, nghiễm nhiên một đống bù nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao? Thì chỉ vì ỷ lại.

Câu tục ngữ ấy thật vẽ đúng tâm tình người nước ta. Nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thì có gánh gì không cất nổi. Nhưng tội tình thay, anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại. Anh Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thím Lục, mà chú Kèo, thím Lục lại ỷ có anh Cột, cô Hường rồi. Rày lần mai lữa, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm.

Quá tin ở những điều viển vông
(Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân 1928)

Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bày định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành; núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu; vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo; vì che mưa gió mà có nhà mà bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần; kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Tư tưởng gia nô

Tư tưởng gia nô (Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân 1928)

Xem lịch sử nước ta tư xưa đến nay hơn ba nghìn năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ (*) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp chế. Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẳng thân giá (**) lại còn gì. Thằng này là con ngựa thằng nọ là con trâu buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi . Gặp Đinh thì làm nô với Đinh, gặp Trần thì làm nô với Trần, gặp Lê Lý thì làm nô với Lê Lý.

Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng cơm thừa, canh thải, đã lấy làm hớn hở vênh vang;tối năm (***) đứng đầu ruộng mới được bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra thì “cơm vua áo chúa"; đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua", lại giữ chặt một hoạt kê vô lý (****). Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp.


(*) thêm vào đó
(**) giá trị con người
(***) quanh năm
(****) đại ý: Tự mình làm ra mà lại bảo là do ơn người khác, thật là câu chuyện buồn cười
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Đời sống hàng ngày hủ bại tầm thường

Đời sống hàng ngày hủ bại tầm thường

(Nguyễn Văn Vĩnh, Chuyên mục Nhà nho, Đông dương Tạp chí, năm 1914)


Các tật của nhà nho đại khái như sau:
1- Tính lười nhác, làm việc gỉ không mấy ông chịu chăm chút siêng năng. Đi đâu thì lạng khang rẽ ràng. Sáng không dậy được sớm, mà đứng dậy thì làm thế nào cũng phải ngồi ngáp một lúc, rồi nào hút thuốc, nào uống nước, nào ăn trầu, nào rửa mặt sau mới nhắc mình lên được mà ra ngoài.
2 - Tính nhút nhát, động làm việc gì thì lo trước nghĩ sau, không dám quả quyết làm ngay. Thí dụ như chưa đi buôn đã lo lỗ vốn, chưa làm ruộng đã sợ mất mùa. Quanh năm chỉ ngồi một xó không được một trò gì.
3 - Hay nghĩ viển vông mà không lo việc trước mắt. Tiền sờ túi không một xu mà vẫn gật gù đánh chén, sánh mình với Lý Bạch, Lưu Linh. Gạo trong nhà không còn một hột, mà vẫn lải nhải ngâm thơ, tỉ(*) mình với Đào Tiềm, Đỗ Phủ. Học thì chẳng được một điều gì thực dụng mà vẫn tự đắc là tai thánh mất hiền(**). Nói khoác thì một tấc đến trời mà rút lại mười voi không được bát nước sáo.
4 - Ngoại giả các tính ấy, lại còn một tính làm cho hại việc là tính cẩu thả. Xem điều gì hoặc làm việc gì, chỉ cẩu cho xong việc, chớ không chịu biết cho đến nơi đến chốn hoặc làm cho thực kinh chỉ(***) vững vàng. Lại một tính tự mãn tự túc, học chưa ra gì đã lấy làm khôn, tài độ một mẩu con đã cho là giỏi. Vì các tính ấy mà làm cho ngăn trở sự tiến hóa.

(*) so sánh.
(**) người có tài có đức.
(***) tạm hiểu: đạt tới chuẩn mực.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Cái gì cũng giả

Cái gì cũng giả (Ngô Tất Tố, Báo Thời vụ, năm 1938)

Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Vệt Nam sản ra những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của Sở nọ, Sở kia. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp. Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bày ra đủ trò: nấu với tiết gọi là giả trâu, nấu với riềng mẻ gọi lả giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo là giả dê.

Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng thì nó là lợn hay trâu, hay gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái gì mà không giả được? Cái nạn nhiều hạng người giả từ đấy mà ra.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường

Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường (Dương Bá Trạc, Tiếng gọi đàn, năm 1925)

Danh dự là có tài có đức có công nghiệp(*) có khí tiết thật, còn kẻ chạy theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi chạy xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen chúc, làm sao cho có được cái mã ngoài ấy thì tất là lộn sòng về cái chân giá trị. Nào trong xã hội mấy ai là người biết cân nhắc so sánh, mà vẫn thường lầm cái hư vinh là cái danh dự thực! Hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân đai, hỏi quỷ ai, tất là ông cả bà lớn, hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu đài ngọc ngà gấm vóc, hỏi cái gì là sướng , tất là ăn trên ngồi trốc, nhận lễ thu tiền. Rồi xu phụ khéo luồn lọt bợm để cẩu vinh, ấy là người giỏi, giết người tợn tâng công khỏe để cầu vinh, ấy là người tài, lắm quan thày tốt, thần thế lo gì cũng xong xin gì cũng được, ấy là anh hùng, nạt con em ức hiếp hàng xóm, anh làm ông nọ, em lâm ông kia, ấy là nhà có phúc, khao phẩm hàm, vọng(**) ngôi thứ, ấy là vẻ vang, cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá. Một người như thế, trăm người đều như thế, đời trước như thế mà đời sau cũng như thế nới!

(*) cũng tức là sự nghiệp.
(**) nộp tiền hay lễ vật cho làng để có ngôi thứ.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Thiết thực nhưng lại phù phiếm

Thiết thực nhưng lại phù phiếm (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)

Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý(*). Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo(**) và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.

Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Não sáng tác(***) thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng , dung hoà thì rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.

(*) tự nhiên cảm thấy hơn là do suy luận mà biết.
(**) những gì đã quá quen.
(***) nói theo cách nói hiện thời, tức "sức sáng tạo" nói chung.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Hay tự ái và hiếu danh (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)

Người Việt rất hay tự ái. Không mấy khi họ thú thật nỗi cực nhọc từng phải chịu. Nhưng tính tự ái thường đi đôi với tính khoe khoang. Họ dễ kiêu căng. Ở nông thôn vấn đề thể diện có một tầm quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác và thích nên danh nên giá. Để chiếm được một vị trí tốt giữa những người trong cùng cộng đồng, nói chung là để thỏa mãn tính hiếu danh, họ chẳng lùi bước trước một điều gì. Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và các món ăn ngon lành trong cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ cốt để có tiền tổ chức những bữa khao vọng linh đình nhân được thụ phong một loại bằng sắc nào đó.

Quan cao chức lớn cũng sống như kẻ hạ lưu (Tản Đà, Đông Pháp thời báo, năm 1927)

Nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mày đay kim khánh mà gian tham xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương hút máu hút mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, như thế có phải là hạng người hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận. Lại nghĩ như những người tây học nho học, học rộng tài cao duyệt lịch giang hồ, giao du quyền quý mà quỷ quyệt giả trá, bôi nhọ ra hề, lấy văn học(*) gạt xã hội để mua cái hư danh, phụ xã hội thân người ngoài(**) để kiếm bề tư lợi , như thế có phải là hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận.

(*) văn học ở đây tức là học vấn nói chung.
(**) người ngoài: chỉ người Pháp cũng như người Tàu là các thế lực lúc ấy đang có nhiều ảnh hưởng.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Thiết thực nhưng lại phù phiếm

Trì trệ và bất lực (Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)

Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút hoạt lực(*) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải cách. Phụ hoạ với triều định, họ đã lấy cái học bã giả(**) của Tống nho dựng một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.

…"Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng không chút sinh khí. Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có tính chất cấp tiến.

(*) sức sống.
(**) thường nói bã chả, với nghĩa cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và nát ngấu nhão nhoẹt.


Hay nghi ngờ và làm hại nhau trong công việc
(Phan Bội Châu, Việt Nam quốc sử khảo, năm 1908)


Người Châu Âu, người Nhật Bản làm việc gì cũng hợp đoàn mà làm. Tôi thường thấy người Nhật Bản lúc bản tính công việc quan trọng họ tin cậy nhau hơn ruột thịt. Còn như nước ta thì không phải không muốn làm nên việc, nhưng cùng làm việc thì nghi ngờ nhau, không phải không muốn thành công, nhưng cùng lập công(*) thì ghét bỏ nhau. Nếu chịu nghĩ kỹ thì tại sao ta lại không biết dằn lòng mà theo nhau, không biết đem lòng thành thật mà đối đãi với nhau, lại cứ nghi ngờ ghét bỏ nhau, thật là ngu quá không thể hiểu được.

(*) ngày nay lập công có nghĩa lập được chiến công chiến tích , hồi đầu thế kỷ XX được hiểu đơn giản là làm mót công việc nào đó...
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Sự suy đồi toàn diện

Sự suy đồi toàn diện (Phan Chu Trinh, Thư gửi Chính phủ Pháp, năm 1905)

Trong khoảng vài mươi năm nay, các bậc đại thần ăn dầm nằm dìa ở chốn triều đình, chỉ biết chiếu lệ cho xong việc, quan lại ở các tỉnh thì chỉ lo cho vững thần thế mà hà hiếp bóp nặn ở chốn hương thôn, đám sĩ phu thì ganh nhau vào con đường luồn cúi hót nịnh, không biết liêm sỉ là gì, bọn cùng dân bị nặn bóp mãi mà máu mủ ngày một khô, không còn đường sinh kế nữa. Đến bây giờ thì thế sự hư hỏng, nhân dân lìa tan, phong tục suy đồi, lễ nghĩa bạt hoại, một khu đất bốn mươi vạn dặm vuông, một dân tộc hơn hai mươi triệu người lại sắp ở vào cái địa vị bán khai mà quay về cái địa vị dã man.

(… ) Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức... Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn, có dẫu ai có muốn lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng Chính phủ(*) cho mượn trăm nghìn khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì cũng giành giật tướcvị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi, quyết không thể sống nổi trong thế giới này, lại còn chống cự ai được nữa.

(*) đây là Chính phủ thực dân Pháp
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Mê muội hưởng lạc

Mê muội hưởng lạc (Nguyễn Trường Tộ, tám việc cần làm gấp, 1867)

Có những người nộp một quan tiền thuế mà tựa hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than vãn, thế mà đến sòng bạc thì cầm nhà bán cửa không tiếc. Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày chầu chực trước nhà không xin nổi một đồng điếu, người làng thiếu thuế không vay lợi được một quan, thế mà đến chỗ ăn chơi thì ngàn vàng mua một trận cười, trong cơn sát phạt, trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Hạng người này nhiều lắm, không xe nào chở hết... Cũng có nhiều người mới học kha khá đã truy hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa với người ta rằng "Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường(*) thì mọi việc sẽ đâu vào đấy". Rắp tâm hành động như thế, rõ ràng là quan trộm cướp của công chứ còn gì?

(*) tức là thi đỗ, rồi ra làm quan tha hồ kiếm chác.

Lười nhác, ốm yếu (Phan Bội Châu, Bàí diễn thuyết tại trường Quốc học Huế, 1926)

Người nước ta quý trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đã thành ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu Châu ập vào, người ta coi chừng đã tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục còn chưa nghiên cứu đến nơi. Cái căn tính lười nhác đã quen nết lâu ngày, lại nhiều điều thói đãng tính dâm dê(*) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự thường, không lo đường cải cách nào là công khóa(**) về đường thể thao, nào là lợi ích về cách vận động. Trong một ngày có 12 giờ nửa ngồi chết trước cuộc tài bàn(***), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện. Vận động đã không có công phu thì huyết mạch lấy gì làm lưu thông, huyết mạch đình trệ thì thân thể phải hèn ốm cho rồi, dân mới hóa ra dân nô lệ, nước mới hóa ra nước bạc nhược.

(*) thói đãng là cách sống buông thả, riêng dàm dê là gì, chúng tôi chưa tra cứu được, không rõ có phải là dàm dê hay không?
(**) những công việc khi vào học phải làm là công, những học trò phải học là khóa, gọi chung là công khóa (Theo Đào Duy Anh , Hán Việt từ điển).
(***) một loại tổ tôm, nhưng chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả (theo cách giải thích của Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục).
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Khổ vì hội hè

Khổ vì hội hè (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, 1915)

Xét cái tục hội hè của ta, rước xách rất phiền phí, ăn uống rất lôi thôi, chơi bời rất chán chê, tiêu pha rất tốn kém, thực là hại của mà lại mua lấy cái khó nhọc vào mình. Đã đành mở hội trước là trọng việc sự thần(*), sau là cầu vui cho dân, nhưng trong mà rước xách tế bái lắm hóa ra khổ. Hội đến hàng tháng, chịu làm sao cho được?

Vả lại đã gọi là hội, trừ ra việc đóng góp, việc ăn mặc cũng đã tốn kém nhiều rồi, còn ngần nào chơi bời, ngần nào cờ bạc, con em bỏ công bỏ việc ở nhà để đi hội, chẳng những vô ích mà lại hại thêm cho làng nữa.

…Xưa nay chỉ mấy người hào trưởng(**) trong làng sính mớ hội vì họ có nhiều món lợi riêng, như mở tổ tôm điểm, bài phu điểm(***), hoặc gá bạc để lấy hồ(****)… Họ mượn tiếng sự thần, kỳ thực lá cầu tư lợi. Mà khốn nạn cho dân đàn em lại phần nhiều là ngu xuẩn, nói đến việc sự thần không ai dám gàn trở gì nữa, dẫu khổ cực thế nào cũng phải nhắm mắt chịu. Nếu ai gàn trở thì sợ thần quật chết tươi. Mà thần chẳng quật, bọn hào trưởng cũng quật, tội nghiệp!

(*) sự ở đây là thờ phụng.
(**) người có thế lực trong làng.
(***) những địa điểm ăn chơi, bài phu cũng là một loại bài lá như bài bất bài cào…
(****) tiền người đánh bạc nộp cho chủ sòng gọi là hồ.


Nạn “thần mãn” (Ngô Tất Tố, Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông thần nào đã - báo Thời vụ 1938)

An Nam vốn là một nước nhiều thần nhất thế giới. Cái vạ thần mãn(*) kéo dài mấy trăm mấy ngàn năm nay làm hại bao nhiêu trâu bò gà lợn... của chúng ta. Đành rằng cũng có nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ niệm, song cũng vô số thần cực kỳ bẩn thỉu dơ dáy, thí dụ như ông thần Cường Bạo đại vương chẳng hạn, nếu còn sống chắc phải đầy đi Côn Lôn. Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan cho cái đầu cái cổ.
(1) quá nhiều thần, thừa thần,cũng như nạn nhân mãn là quá nhiều người, thừa người.




Co mình trong hủ lậu (Văn minh tân học sách, 1904)

Kìa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ(*), bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lý, phù thủy ngày ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, chả kể làm gì. Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tý được cái tiếng quèn đã vội khủng khỉnh ta đây kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo(**), ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh. Hạng kém hơn nữa thi chỉ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bực cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác. Có một ông nào đã nói với các bạn hậu tiến(***): "Các thầy muốn ra làm quan, thì phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem báo mới”, nếu không biết đến sách báo mới thì thôi, chớ đã biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe không thấy chuyện gì, để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thể thiệt nên lấy làm đau đớn!

(*) đầu hồ: một trò chơi của người xưa, ném một cái thẻ xuống một miệng trống rồi tính điểm, được "Đại Nam quốc âm tự vị” miêu tả là "một cuộc chơi lịch sự”.
(**) thế đạo: đạo lý ở đời.
(***) hậu tiến: đây chỉ có nghĩa lớp người thuộc thế hệ sau, chữ không phải người kém cỏi.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò

Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò (Phạm Quỳnh, Bàn về quốc học, Nam phong, 1931)


Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò! Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi... chưa mấy ai là rõ rệt có cái tư cách - đừng nói đến tư cách nữa, hãy nói có cái hy vọng mà thôi - muốn độc lập trong cõi tư tưởng cả. Như vậy thì ra giống ta chung kiếp(*) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
(*) suốt đời.


Tùy tiện, cẩu thả trong giao lưu, tiếp xúc
(Phan Chu Trinh, nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp, 1912)

“Xét nước ta đời thụ phong Trung Quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là trò chơi, không coi là vẻ vang. Kẻ lấy Trung Quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối(*): vua nhác, tôi nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta(**) lại càng nhiều. Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung Quốc coi như vinh dự. Những kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than , tiếng cười của sĩ phu Trung Quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ vang. Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu nước ta.

(*) tức giai đoạn suy tàn của một triều đại.
(**) triều ta đây tức là nhà Nguyễn.
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Thạo sử người hơn sử mình

Thạo sử người hơn sử mình (Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, 1914)

Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và nòi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao. Tồ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ - phát nguyên từ nơi nào.

Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (*), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả. Lại còn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đã không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn(**)... chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí não của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ(***) mà thôi.

(*) các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin…
(**) hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn
(***) tức lịch sử Trung Hoa.


Ai cũng học mà chẳng học ai cả (Ngô Đức Kế, Nền quốc văn - Tạp chí Hữu Thanh, 1924)

Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà đi thi, đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi. Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học. Cho nên ngày trước triều đình thì Hán tự thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử, ông nghè. Ngày nay Chính phủ bảo hộ thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán…


Dễ học cái dở hơn cái hay (Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, 1904)

Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy (*), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết mức về việc xa xỉ, về lý tự bạo (**), mà không thông thái về cách tính toán, về phép thương cổ (***); không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (****) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm. Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giới, thì kẻ nghèo khó còn thặng (*****) trên số ngàn nữa.

(*) chỉ lối sống sang trọng
(**) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.
(***) buôn bán.
(****) việc sinh lợi
(*****) dư ra
 

Bhji Onj

Thanh viên kỳ cựu
Xấu làm tốt dốt làm thông

Xấu làm tốt dốt làm thông (Ngô Đức Kế, tạp chí Hữu Thanh, 1923)

Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp của tiền nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp lúc ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi, thế mà không làm sao bước tới theo người. Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt nát đói nghèo khốn khổ, không dám ló đầu ra với mọi người. Nhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng thêm man rợ.Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế, thôi thì không có việc mà bàn không có chuyện mà chép, mà cũng không bàn làm gì không chép làm gì.

Bắt chước vội vã thêm gây hại (Trần Trọng Kim, Nho giáo, 1930)

Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi còn cái tinh thần ở trong, phi (*) lâu ngày nhiễm (**) lấy được mà hóa (***) đi, thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình. Có lắm người vọng tưởng (****) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho sự tiền hóa của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ một ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.
(*) không phải.
(**) thâm nhập.
(***) thay đổi. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra gọi là hoá.
(****) vọng tưởng: nghĩ lầm
 

Bình luận bằng Facebook

Similar threads
Thread starter Tiêu đề Diễn đàn Trả lời Date
trangdang [Trải nghiệm] Giới trẻ Việt Nam dưới góc nhìn của người nước ngoài Trải Nghiệm Cuộc Sống 0
L Suy ngẫm: VÌ CÓ MỘT NGƯỜI CHA ĐÃ HỨA Trải Nghiệm Cuộc Sống 0
jodiepham2204 Anh là người đàn ông của đời em Trải Nghiệm Cuộc Sống 4
Sóng [Trải nghiệm] Người nhỏ và người lớn Trải Nghiệm Cuộc Sống 1
nguyenminhthi90 Nhiều người nghèo thích phô trương xe ga, iPad Trải Nghiệm Cuộc Sống 3
B Những người bạn cần nhớ đến trong cuộc đời Trải Nghiệm Cuộc Sống 0
Vân Anh Nguyễn Ai Là Người Trong Sạch? Trải Nghiệm Cuộc Sống 0
benny [Trải nghiệm] Người bán sắn ở Tân Bình Trải Nghiệm Cuộc Sống 2
benny [Trải nghiệm] Những cuộc hẹn - Kì 3: Tôi là người như thế nào? Trải Nghiệm Cuộc Sống 6
huxu456 [Trải nghiệm] Bạn có phải là người thích phàn nàn và đổ lỗi? Trải Nghiệm Cuộc Sống 3
lampham Bắt con bò ngoài phố: Tâm sự người cha Trải Nghiệm Cuộc Sống 0
benny [Trải nghiệm] Bài học từ những người anh Trải Nghiệm Cuộc Sống 4
benny [Trải nghiệm] Người chuyên và người không chuyên: Ai giỏi hơn? Trải Nghiệm Cuộc Sống 1
moon_tsuki [Trải nghiệm] Học được cách nhìn mới về "tính kinh tế" từ người rửa xe Trải Nghiệm Cuộc Sống 7
swynts [Trải nghiệm] Một nền giáo dục vì con người ?... Trải Nghiệm Cuộc Sống 2
ChickenS0up [Trải nghiệm] Con người lớn lên để làm gì nhỉ ?! Trải Nghiệm Cuộc Sống 3
bichlan Người bạn thực sự Trải Nghiệm Cuộc Sống 2
thaihabooks Nhắn nhủ mọi người cảnh giác Trải Nghiệm Cuộc Sống 28
W Người yêu và bạn bè Trải Nghiệm Cuộc Sống 0
thaihabooks Dành cho những người con may mắn.. còn Cha Mẹ Trải Nghiệm Cuộc Sống 7
J©uRn€¥ Người ta không gọi nó là cuộc sống, người ta gọi nó là cuộc đời! Trải Nghiệm Cuộc Sống 8
J©uRn€¥ :) Những điều giản dị mà người ta bỏ nó vào thùng rác ^^ Trải Nghiệm Cuộc Sống 6
J©uRn€¥ Việt Nam mình còn nghèo lắm.... Trải Nghiệm Cuộc Sống 16

Similar threads

Similar threads

Similar threads

Top