Bhji Onj
Thanh viên kỳ cựu
Kinh tế học là một thứ khoa học trẻ tuổi, vì nó chỉ được tính từ khi Adam Smith cho ra đời cuốn sách mà ngày nay chúng ta vẫn gọi tắt là The Wealth of Nations, trong đó ông đưa ra những nguyên lý và kiến giải kỹ lưỡng. Thực ra, như cuốn tiếng Anh tôi cầm trong tay thì nó gồm nhiều books khác nhau, nhưng liên hệ rất chặt chẽ, thường bắt đầu là: Bàn về... và Thuộc về...
Thế rồi nó đã phát triển rùng rùng để trở thành một ngành học đông đảo người theo đuổi ngày nay, sau 2 thế kỷ.
Kinh tế học gắn liền với tên tuổi nhiều nhân vật nhiều định luật Say, Ricardo, Mills, v.v... nhiều lắm, chắc là tôi kể, bạn kể, tất cả cùng kể, cũng chưa thể hết. Thực ra người ta nói rằng Kinh tế học ra đời từ thời Hy-lạp cổ đại, mà như chúng ta đã thấy, hầu hết nguồn gốc các khoa học loài người sinh ra ở đó. Chữ Ekonomika gì đó cũng là chữ của Hy-lạp. Vì một vài lý do nào đó, các hiền triết và nhà tư tưởng Hy-lạp cổ đã không tiếp tục phát triển những mầm mống của ngành khoa học này. Nếu họ làm thế thì thành tích của Kinh tế học và lịch sử của nó chắc đã khủng khiếp hơn nhiều rồi (mặc dù thế này cũng đã quá sức tưởng tượng.) Nhưng tôi định nói chuyện khác.
Kinh tế học rõ ràng là ở khía cạnh nào đó được nghiên cứu khá độc lập với kinh doanh. Kinh doanh liên quan rất nhiều tới yếu tố tổ chức sản xuất-kinh doanh-thương mại, còn kinh tế học thì nghiên cứu tổng quát tới các nguồn lực và việc giải bài toán phân phối nguồn lực xã hội hữu hạn sao cho tăng trưởng tốt, bền vững và đảm bảo nhu cầu tồn tại phát triển của loài người. Nói một cách giản dị dường như Kinh tế học bàn chuyện "to", chuyện "trên giời". Đó là cảm giác thôi.
Thực ra đó là cái chúng ta gọi là Kinh tế học chính thống, vốn hay chia thành Macroeconomics và Microeconomics (tiếng Việt gọi là Kinh tế Vĩ mô và Kinh tế Vi mô ấy mà). Trong Kinh tế học theo dòng chính thống, việc nghiên cứu các mô hình được xem là công việc vô cùng quan trọng. Ấy thế mà có vị cao nhân bảo là: "Mọi mô hình đều sai, nhưng có một số hữu ích." Mô hình đối với kinh doanh thì lại càng khó nữa, một trò chơi vốn liếng, tâm lý, cảm xúc, cả vận may và những chiến lược sáng tạo tới lạ đời thì việc lên trước một mô hình để rồi tằng tằng tiến tới có thể xem như không tưởng vậy!
Ngay một chủ đề quan trọng như Khởi nghiệp thì để tìm kiếm một dòng nghiên cứu chính thống trong kinh tế học cũng rất khó khăn. Một số tác giả như Schumpeter chẳng hạn cũng hết sức "vận công" nhưng mà chỉ để thống nhất các tư tưởng giữa các kinh tế gia nghiên cứu cùng vấn đề cho việc trả lời câu hỏi "Đây đã là vấn đề hay chưa" mà còn vô cùng khó khăn. Các dẫn chứng tôi sẽ đưa từ từ.
Tuy thế, tôi theo cách nghĩ rằng dù sao việc sở hữu và có thể sử dụng một nền tảng kiến thức vững vàng cũng là lợi ích lớn của những người đang nghiên cứu các vấn đề Kinh tế học Kinh doanh, bởi vì ở mức độ tối thiểu, đó là những bản chất bao trùm mà Kinh doanh sẽ buộc phải liên quan tới hoặc nằm trong đó, hoặc ghé ở rìa.
Câu chuyện này dài lắm, và chúng ta sẽ còn nhiều dịp trao đi đổi lại. Tôi cũng chưa định bắt đầu gì nhiều ở đây vì rõ ràng là cả Kinh tế học lẫn "Kinh doanh học" đều không thể gói trong ít chữ thế này. Chúng ta sẽ cùng soạn bữa tiệc chữ nghĩa từ đây!
Thế rồi nó đã phát triển rùng rùng để trở thành một ngành học đông đảo người theo đuổi ngày nay, sau 2 thế kỷ.
Kinh tế học gắn liền với tên tuổi nhiều nhân vật nhiều định luật Say, Ricardo, Mills, v.v... nhiều lắm, chắc là tôi kể, bạn kể, tất cả cùng kể, cũng chưa thể hết. Thực ra người ta nói rằng Kinh tế học ra đời từ thời Hy-lạp cổ đại, mà như chúng ta đã thấy, hầu hết nguồn gốc các khoa học loài người sinh ra ở đó. Chữ Ekonomika gì đó cũng là chữ của Hy-lạp. Vì một vài lý do nào đó, các hiền triết và nhà tư tưởng Hy-lạp cổ đã không tiếp tục phát triển những mầm mống của ngành khoa học này. Nếu họ làm thế thì thành tích của Kinh tế học và lịch sử của nó chắc đã khủng khiếp hơn nhiều rồi (mặc dù thế này cũng đã quá sức tưởng tượng.) Nhưng tôi định nói chuyện khác.
Kinh tế học rõ ràng là ở khía cạnh nào đó được nghiên cứu khá độc lập với kinh doanh. Kinh doanh liên quan rất nhiều tới yếu tố tổ chức sản xuất-kinh doanh-thương mại, còn kinh tế học thì nghiên cứu tổng quát tới các nguồn lực và việc giải bài toán phân phối nguồn lực xã hội hữu hạn sao cho tăng trưởng tốt, bền vững và đảm bảo nhu cầu tồn tại phát triển của loài người. Nói một cách giản dị dường như Kinh tế học bàn chuyện "to", chuyện "trên giời". Đó là cảm giác thôi.
Thực ra đó là cái chúng ta gọi là Kinh tế học chính thống, vốn hay chia thành Macroeconomics và Microeconomics (tiếng Việt gọi là Kinh tế Vĩ mô và Kinh tế Vi mô ấy mà). Trong Kinh tế học theo dòng chính thống, việc nghiên cứu các mô hình được xem là công việc vô cùng quan trọng. Ấy thế mà có vị cao nhân bảo là: "Mọi mô hình đều sai, nhưng có một số hữu ích." Mô hình đối với kinh doanh thì lại càng khó nữa, một trò chơi vốn liếng, tâm lý, cảm xúc, cả vận may và những chiến lược sáng tạo tới lạ đời thì việc lên trước một mô hình để rồi tằng tằng tiến tới có thể xem như không tưởng vậy!
Ngay một chủ đề quan trọng như Khởi nghiệp thì để tìm kiếm một dòng nghiên cứu chính thống trong kinh tế học cũng rất khó khăn. Một số tác giả như Schumpeter chẳng hạn cũng hết sức "vận công" nhưng mà chỉ để thống nhất các tư tưởng giữa các kinh tế gia nghiên cứu cùng vấn đề cho việc trả lời câu hỏi "Đây đã là vấn đề hay chưa" mà còn vô cùng khó khăn. Các dẫn chứng tôi sẽ đưa từ từ.
Tuy thế, tôi theo cách nghĩ rằng dù sao việc sở hữu và có thể sử dụng một nền tảng kiến thức vững vàng cũng là lợi ích lớn của những người đang nghiên cứu các vấn đề Kinh tế học Kinh doanh, bởi vì ở mức độ tối thiểu, đó là những bản chất bao trùm mà Kinh doanh sẽ buộc phải liên quan tới hoặc nằm trong đó, hoặc ghé ở rìa.
Câu chuyện này dài lắm, và chúng ta sẽ còn nhiều dịp trao đi đổi lại. Tôi cũng chưa định bắt đầu gì nhiều ở đây vì rõ ràng là cả Kinh tế học lẫn "Kinh doanh học" đều không thể gói trong ít chữ thế này. Chúng ta sẽ cùng soạn bữa tiệc chữ nghĩa từ đây!
(ST)