[Sinh Viên] Tư duy logic và động lực phát triển xã hội(p1)

Sóng

Thanh viên kỳ cựu
Thành viên BQT
Sóng đọc được bài này trên vietnamnet.vn
Bài 1: Tư duy logic và động lực phát triển xã hội
Khả năng tư duy logic của người Việt là không kém ai, nhưng tại sao lại không dẫn đến những kết quả cụ thể trong thực tiễn? “Tại sao tư duy logic tốt mà lại quá ít (hay chưa có) nhà khoa học tầm cỡ thế giới? Tại sao có nhiều người thông minh mà lại quá ít thiên tài? Hay tại sao chỉ số giáo dục được UNDP đánh giá cao mà nền giáo dục lại quá nhiều điều dở?” (PGS Hồ Sĩ Qúy). Chuyên đề “Người Việt hiện đại và Tư duy logic” mà Vietimes thực hiện dưới đây sẽ phần nào làm sáng tỏ những câu hỏi này.

Cách đây hàng nghìn năm, người Việt cổ đã biết hướng tư duy vào thực tiễn. Các họa tiết người, chim, hươu nhảy chạy bay vây quanh mặt trời theo hướng ngược chiều kim đồng hồ chứng tỏ người Việt cổ đã phần nào nắm được tính chu kỳ, qui luật tuần hoàn của bốn mùa. Hình khối cân xứng, hài hoà của trống đồng, sự phân bố đều đặn các điểm trang trí giữa các đường tròn đồng tâm trên mặt trống tuân theo chặt chẽ những luật đối xứng.Những điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng chủ nhân trống đồng đã có những khái niệm về hình học và số học ở một trình độ nhất định.
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, trí tuệ Việt Nam đã được khẳng định bằng một trường phái toán học Đại Việt độc đáo, uyên sâu với những tên tuổi lớn như Trạng Nguyên Mạc Hiển Tích, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh… Thế kỷ 20, dù đi qua biết bao biến cố, thử thách lớn lao của lịch sử, trí tuệ Việt Nam vẫn tiếp tục tỏa sáng, thăng hoa bằng những kỳ tích khiến nhân loại phải ngả mũ kính phục. Không có một dân tộc nào trong một thế kỷ lại đánh bại hai cường quốc mạnh nhất thế giới. Dân tộc ấy tiếp tục đóng góp cho thế giới nhiều nhà khoa học lớn trong các lĩnh vực toán học, vật lý, triết học…trong những điều kiện khó khăn nhất về hoàn cảnh sống cũng như môi trường nghiên cứu. Một số trắc nghiệm về IQ, EQ, và những thành tích của trí tuệ Việt Nam trong các cuộc tranh tài với thế giới xư¬a và nay đều có những tấm g¬ương đủ sức thuyết phục.
PGS. TS Hồ Sĩ Quý- Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội- Viện KHXHVN là một trong những chuyên gia có uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu về con người, văn hóa, văn minh, giá trị và tiến bộ xã hội. Theo ông, người Việt hoàn toàn có thể tự hào về khả năng tư duy logic của người mình. Tuy nhiên, để biến “mỏ lộ thiên” này thành những viên kim cương giá trị cho cuộc sống lại là một bài toán khác, mà nếu “hóa giải” thành công, Việt Nam sẽ có những bước nhảy vọt khổng lồ trong tương lai
Phóng viên (PV): Kishore Mahbubani, cựu Đại sứ Singapore tại Liên Hiệp Quốc trong cuốn sách “Người châu Á có thể suy nghĩ?” đã đặt mối hồ nghi về khả năng tư duy logic của người phương Đông. Tác giả lý giải đây là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến sự phát triển kinh tế - KHKT của châu Á đi sau phương Tây nhiều thế kỷ. Là một nhà nghiên cứu đã có nhiều tác phẩm về triết học và về văn hóa được công bố, theo ông, người Việt Nam có hay không cái gọi là “tư duy logic”? PGS Hồ Sĩ Quý (PGS HSQ): Nói đến tư duy logic thì nhân loại, ở châu Phi hay ở châu Âu, ở châu Á hay ở châu Mỹ, từ Albert Einstein cho đến mỗi người chúng ta, ai ai trong đầu cũng đều có so sánh, phán đoán, suy lý, trên cơ sở các ý niệm, khái niệm về các hiện tượng, sự vật xung quanh. Nghĩa là tự nhiên ban cho con người bộ não hoạt động tư duy với các quy luật logic vốn có, khách quan ở tất cả mọi người và mọi dân tộc. Các quy luật của tư duy logic là phổ biến cho toàn nhân loại. Dĩ nhiên, sản phẩm tư duy của người này thì khác người kia, về cùng một phán đoán nhưng có người đúng và có người sai; cái đó lại phụ thuộc vào các điều kiện khác.
Vì thế, câu hỏi “Người Việt có tư duy logic hay không?” là câu hỏi sai. Vì đã là người thì phải có tư duy, tức là tư duy logic, kể cả người mông muội, dã man nhất. Trừ những người có vấn đề về mặt tâm thần, logic của họ có thể là logic khác và nó không theo quy luật của tư duy thông thường.
Theo tôi, thực chất câu hỏi này phải là người Việt, trong hoạt động sống của mình có tôn trọng tư duy logic với các bằng cớ xác thực của nó hay không, có tôn trọng cái hợp lý - mặt logic của sự việc, mặt lý tính của vấn đề hay không? Bản thân mỗi sự việc, hiện tượng có rất nhiều khía cạnh, nhưng về khía cạnh lý tính, duy lý của vấn đề thì người Việt tôn trọng cái hợp lý đến đâu? Hay vẫn biết là nó có lý, nhưng vẫn không nghe?
Nói tư duy phương Đông hay tư duy phương Tây chẳng qua là nói đến nếp cảm, nếp nghĩ, phong cách, thói quen, lối ứng xử trong nhận thức, thậm chí cả trong hoạt động thực tiễn, trong lối sống đời thường… Ở đó có một cái gì đó đặc trưng, đặc thù và có thể phân biệt với các cộng đồng khác. Sự khác nhau giữa văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây, như trong phân biệt của Teilhard de Chardin, Spengler, Toynbee hay Francois Jullien… không phải là khác nhau về tư duy và về các quy luật của tư duy.

PV: Vậy đặc trưng của nếp cảm, nếp nghĩ, phong cách, thói quen… của người Việt so với tư duy các dân tộc khác là gì, thưa ông?PGS. Hồ Sĩ Quý: Duy lý là truyền thống nổi bật của xã hội phương Tây, chính xác hơn là của các xã hội Tây Âu mà hạt nhân của nó được xây dựng ngay từ thời kỳ Cổ đại. Truyền thống này được củng cố và phát triển, đặc biệt từ khi xuất hiện các khoa học theo đúng nghĩa của nó bắt đầu từ thời đại Phục Hưng.
Khả năng tư duy logic, nói cách khác, tiềm năng duy lý của người Việt không đến nỗi thua kém ai. Thậm chí, chúng ta còn có quyền tự hào về khả năng tư duy logic của người Việt. Một số trắc nghiệm về IQ, chỉ số thông minh, và những thành tích của trí tuệ Việt Nam trong các cuộc tranh tài với thế giới xưa và nay đều có những tấm gương đủ sức thuyết phục.

Còn ở Việt Nam, nền khoa học theo nghĩa hiện đại của khái niệm này xuất hiện muộn và có nhiều hạn chế so với bên ngoài. Cùng với các nguyên nhân khác thuộc văn hóa truyền thống, sự muộn mằn của khoa học làm cho tinh thần tôn trọng tư duy lý tính, tư duy logic, tính hợp lý của vấn đề… ở ta có phần hạn chế hơn. Nếu ở phương Tây, điều mà anh không bác bỏ được thì anh phải thừa nhận, thì ở ta, vẫn thường có tình trạng, không bác bỏ được, không “cãi lại” được, tức là không chỉ ra được nó bất hợp lý ở chỗ nào, thậm chí, trong “bụng” thấy điều đó hoàn toàn hợp lý, nhưng vẫn không chịu thừa nhận, không muốn thừa nhận. Tình trạng này lại dẫn tới một điều nguy hiểm khác: không chịu tìm tòi chứng lý khách quan để bác bỏ hay thừa nhận lập luận của người khác. Đây là mảnh đất tốt để định kiến thể hiện sức mạnh. Đó là cái sự thật nên được nhìn thẳng để khắc phục, nhất là trong việc xem xét các vấn đề vĩ mô, các kế hoạch xã hội.
Dĩ nhiên, cảm nhận cảm tính, những đánh giá có phần linh cảm, trực giác… cũng có giá trị của chúng. Trong một số trường hợp những đánh giá đó có thể chấp nhận được vì nó cũng phản ánh được thực chất cuả vấn đề. Nhưng trong nhiều trường hợp những suy nghĩ kiểu như vậy có thể gây ra sự ngộ nhận không đáng có. Theo tôi, sự chi phối quá mức của yếu tố cảm tính, sự thiếu hụt không đáng có của yếu tố duy lý… là cái thường bắt gặp trong nhận thức và hành động hằng ngày của người Việt chúng ta.

PV: Vậy ông lý giải như thế nào về một số thành tựu đỉnh cao liên quan đến tư duy logic như toán học, cờ vua, vật lý… mà Việt Nam đã có khá nhiều người có thành tích cao trong những lĩnh vực này?
PGS. Hồ Sĩ Quý: Đây là một điều thú vị. Quả thực đến giờ này, khá nhiều nhận xét, đánh giá của người nước ngoài về người Việt và tư duy người Việt là rất tích cực. Theo tôi, những đánh giá như vậy là có thể tin được. Khả năng tư duy logic, nói cách khác, tiềm năng duy lý của người Việt không đến nỗi thua kém ai. Thậm chí, chúng ta còn có quyền tự hào về khả năng tư duy logic của người Việt. Một số trắc nghiệm về IQ, chỉ số thông minh, và những thành tích của trí tuệ Việt Nam trong các cuộc tranh tài với thế giới xưa và nay đều có những tấm gương đủ sức thuyết phục.

PV: Liệu đây có phải là một nhận xét quá lạc quan?
PGS. Hồ Sĩ Quý: Điều này đã được nói từ thời các học giả Phạm Quỳnh, Dương Quản Hàm, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, v.v.. Một đề tài nghiên cứu của GS. Trần Kiều gần đây cũng chỉ ra các số liệu chứng minh cho điều đó. Còn các tài liệu của người nước ngoài thì còn nhiều hơn nữa. Tiềm năng tư duy logic (liên quan nhiều đến IQ), tiềm năng tư duy mẫn cảm (liên quan nhiều đến EQ) và tiềm năng tư duy sáng tạo (liên quan nhiều đến CQ)… ở người Việt đều ở mức tích cực trở lên cả. Vấn đề không phải là quá lạc quan mà là quá băn khoăn. Tại sao tiềm năng khá thế mà thành quả sáng tạo lại hiếm hoi? Tại sao tư duy logic tốt mà lại quá ít (hay chưa có) nhà khoa học tầm cỡ thế giới? Tại sao có nhiều người thông minh mà lại quá ít thiên tài? Hay tại sao chỉ số giáo dục được UNDP đánh giá cao mà nền giáo dục lại quá nhiều điều dở?
Chúng ta nên chú ý chữ “tiềm năng”. Tư duy logic về mặt tiềm năng của người Việt là rất giỏi nhưng để đi đến kết quả cụ thể trong đời sống thực tiễn, đặc biệt trong sáng tạo thì mình lại kém. Người Việt tiếp xúc với người nước ngoài luôn lộ ra cái thông minh, sắc sảo, cách nhận định vấn đề nhanh nhạy. Nhưng để đi đến sản phẩm cuối cùng thì ta lại yếu hơn bất kì ai. Tiềm năng giàu có mấy cũng chưa phải là hiện thực. Hiện thực này lại phải lý giải bằng nhiều nguyên nhân khác.
 

Sóng

Thanh viên kỳ cựu
Thành viên BQT
Tư duy logic và động lực phát triển xã hội (p2)

PV: Theo ông, nguyên nhân chính cản trở sự phát triển này là gì?

PGS. Hồ Sĩ Quý: Có nhiều nguyên nhân, nhưng có một điều mà tôi ngẫm nghĩ bấy lâu là bảng giá trị xã hội của ta hình như có vấn đề. Bầu không khí xã hội có ý nghĩa định hướng cho sự cố gắng, sự thành đạt của mỗi người, thì giữa phương Tây và ta khác nhau nhiều đấy.
Ngày xưa các cụ đi học là để làm quan, sau đó là làm người. Hình như điều đó còn chi phối đến tận bây giờ: “Làm quan”, làm người trên thực tế được coi là quan trọng hơn, có giá trị hơn làm việc. Bằng cớ là vẫn làm việc như thế nhưng khi còn “làm quan” thì được tôn trọng hơn, được đánh giá cao hơn. Có một người đã phản ứng với cách giới thiệu “nguyên thứ trưởng” khi những đóng góp khác của ông rất có giá trị thì không mấy ai để ý. Cách nghĩ này của xã hội làm lệch lạc động lực tiến thân của mỗi cá nhân. Tôi nói lỗi này thuộc về bảng giá trị vì không chỉ đồng nghiệp, người cùng cơ quan mà ngay cả bạn bè, người thân và người ruột thịt cũng nghĩ về giá trị của mỗi cá nhân như thế. Bảng giá trị này có sự thiếu hụt của yếu tố duy lý.
Trong khi đó, ngay từ thời cổ đại, phương Tây đã có quan niệm: “Tôi yêu thầy nhưng còn yêu chân lý hơn yêu thầy”. Cách đây vài thế kỷ, người châu Âu đã biết “dùng đầu để đứng”. “Tất cả mọi thứ đều phải đem ra phán quyết, bảo vệ sự tồn tại của mình trước toà án của lý tính”. Tinh thần đó làm nên thời đại Phục Hưng ở châu Âu vào thế kỷ 15 và phát triển rực rỡ ở thế kỷ Khai sáng 17-18. Đó là truyền thống tư duy phương Tây.

Tư duy logic hay truyền thống duy lý của phương Tây đòi hỏi mọi quá trình suy nghĩ, hành động, ra quyết định đều phải tôn trọng các dữ kiện đầu vào và sau đó mới là các dữ liệu cảm tính, linh cảm, trực giác. Khoa học xã hội ở phương Tây chỉ được coi là khoa học khi được chứng thực bằng các chỉ số, chỉ báo định lượng.
Người Việt Nam, do chậm phát triển khoa học, do hoàn cảnh sống chi phối và do một vài đặc điểm văn hóa truyền thống khác nên trong đời sống, chúng ta ít tôn trọng tính logic của vấn đề, tính xác thực về mặt logic của mỗi công việc, của mỗi lập luận… như chúng đáng lý phải được tôn trọng. Ngày nay, điều đó lại còn nguy hiểm hơn khi có sự chi phối của các lợi ích trong bối cảnh kinh tế thị trường. Báo chí đã nói hằng ngày về các hiện tượng xã hội mà nếu tôn trọng logic khách quan của chúng thì vấn đề đâu đến nỗi nào.

PV: Như vậy, định kiến đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư duy logic của chúng ta?
PGS. Hồ Sĩ Quý: Với tư duy logic mà nói là định kiến thì có vẻ hơi nặng. Do thói quen không đòi hỏi người ta phải khắt khe về mặt logic, chứ không phải do định kiến là cứ cảm tính thì hay hơn lý tính. Ở người Việt, những giá trị như cần cù, hiếu học, tôn trọng cộng đồng, gia đình, huyết thống... thường đứng đầu bảng trong các nấc thang đánh giá. Nhưng với phương Tây, tiêu biểu là người Mỹ thì những phẩm chất như sáng tạo, tự lực cánh sinh, tìm tòi suy nghĩ... lại là giá trị đầu bảng. Người Việt cũng tôn trọng những giá trị đó nhưng chúng không đứng ở vị trí đầu bảng, không được đề cao bằng các giá trị khác. Ở phương Tây, trong chừng mực mà tôi được biết, có những nhà khoa học còn rất trẻ nhưng đã đi thuyết giáo cho học thuyết mới của mình. Bảng giá trị ở đó chấp nhận rằng, bất kể anh trẻ hay già, có bằng cấp cao hay thấp, nếu quan điểm mới của anh đủ chứng lý, có sức thuyết phục, không bắt bẻ được về mặt logic và về mặt thực tiễn... thì anh đáng được đánh giá cao. Và đánh giá cao những người như thế là chuyện bình thường. Nhưng ở người Việt, trong khoa học xã hội và trong một vài lĩnh vực khác, nếu bây giờ ai dám công bố ý đồ sáng tạo to lớn gì về mặt khoa học, thì chắc người đó là một “sinh vật lạ” mặc cho quan niệm của anh ta có lý đến chừng nào.
Về điều này, trước đây nhà văn Nguyễn Tuân và GS. Trần Đình Hượu đã có những ý kiến rất hay. Đại ý cảnh báo rằng, ở ta, rừng dày quá nên ít cây đại thụ, ai cũng là người đánh giặc nên khó tạc tượng một chiến sỹ anh hùng, ai cũng làm thơ nên khó tôn vinh một biểu tượng của thơ hay...
Nguyễn Thu Phương (Vietimes) thực hiện
 

Bình luận bằng Facebook

Top