Là thể loại thơ tự do, theo phong cách trừu tượng và khoa đại.
Vần và nhịp và nhịp bài thơ được ăn khớp theo lối linh hoạt, giữ các câu và sư chuyển ý hay gieo vần theo mạch cảm xúc.
Tuy là thể loại thơ tự do, đọc vào mới đầu như là điên cuồng, rối loạn và gần với những lời tự sư. NHưng thật ra thơ tự do còn đó những niêm luật riêng của nó.
Phong trào Thơ tự do
Có lẽ bắt đầu từ bài thơ dịch của Nguyễn Văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi trên Trung Bắc Tân văn (1928) mà nguồn thơ mới khởi thảo:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Lối thơ không niêm, không luật, không hạn chế số chữ trong câu, không hạn chế số câu lại có vẻ thích ứng với đông đảo quần chúng hơn.[23]
Lối thơ này đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Phục Hưng, như trong các tác phẩm của William Shakespeare. Chẳng hạn trong bi kịch Hamlet, khi chàng gọi mẹ mình vào, mời bà ngồi (Những câu tiếng Việt chỉ là phần dịch tạm thời):
Queen.
Have you forgot me?
(Ngươi quên ta là ai rồi chăng?)
Ham.
No, by the rood, not so:
(Không, tôi thề bằng thánh giá, không phải vậy
[24]
You are the queen, your husband's brother's wife;
(Bà là nữ hoàng, vợ người em nhà vua, chồng bà)
And,--would it were not so!--you are my mother.
(Mà dù có không phải thế đi chăng nữa, bà vẫn là mẹ của tôi)
Queen.
Nay, then, I'll set those to you that can speak.
(Đúng, vậy ta sẽ chỉ phép những gì ngươi được nói.)
Ham.
Come, come, and sit you down; you shall not budge;
(Lại đây, lại đây, và hãy ngồi xuống; bà hãy ngồi im, không nhúc nhích)
You go not till I set you up a glass
(Bà sẽ không được ra khỏi đây, cho đến khi nào tôi mời bà một cốc nước)
Where you may see the inmost part of you.
(Trong đó bà sẽ nhìn thấy đáy lòng của bà)[25]
Có quan điểm cho rằng thơ tự do đặt tầm quan trọng về cách đọc thơ, hay sự bố trí theo chiều dọc của tờ giấy hơn, và nhịp điệu của thị giác mới là phần quan trọng. Chẳng hạn:
Đến thời Phục hưng, thơ không vần tiếng Anh với kỹ thuật vắt dòng, phá bỏ cách đọc ngừng lại ở cuối dòng. Đọc từ dòng trên vắt xuống dòng dưới theo cú pháp văn phạm, rõ chữ, và câu liền lạc. Sau này, vào đầu thế kỷ 20, thơ tự do cũng theo cách đọc như thế. Nhưng giữa thơ không vần và thơ tự do vẫn có sự khác biệt khi đọc. Với loại thơ tự do dùng kỹ thuật dòng gãy, trình bày dòng ngắn dài, để tạo nhịp điệu thị giác trên mặt giấy, khi đọc lên, không đọc theo dòng mà theo câu, mục đích chỉ để nghe rõ âm thanh của từng chữ. Nhịp điệu thị giác mới là phần quan trọng, qua đó, người đọc lần theo tiến trình phân tích để tìm ra ý nghĩa bài thơ. Như vậy, để hiểu một cách toàn vẹn bài thơ loại này, người đọc phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau, âm thanh của chữ, nhịp điệu của câu dòng và ý nghĩa trong tiến trình phân tích. Với loại thơ trình diễn, gần với sự ứng tác thì người nghe dễ bị lôi cuốn bởi khả năng trình diễn và cách đọc của người đọc thơ. Như vậy cách đọc của thơ tự do không thể hiểu theo nghĩa của thơ truyền thống, nhịp điệu thị giác và cách trình diễn quan trọng hơn phần âm thanh của tiếng nói.[26]
Chữ tự dọ ở đây có thể hiểu là sự thoát thân khỏi sự kiềm chế của các luật thơ. Nhà thơ muốn chạy theo cảm hứng, theo tình cảm, lấy chữ để biểu tả nội tâm thay vì để cho con chữ, để cho những luật lệ bắt người ta bị kìm kẹp, bị chê trách, mà phải đổi chữ, đổi ý, biến bài thơ thành một đứa con quái thai của tình cảm của họ. Phan Khôi viết trong Phụ nữ Tân Văn - số 132:
.. lâu nay mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói không được, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói ra lại bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ thật là dễ ức.
Chẳng hạn như bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về:
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giác mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng...
Này, này! Bạn! Xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng, long vồn vã...
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới
Xuân về.[27]
Rồi sau này Hữu Thỉnh trong bài Thơ viết ở biển:
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút
đã cô đơn
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sông chẳng đi đến đâu
nếu không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em[28]
Như vậy có thể nói, thơ tự do thiên về tính âm nhạc, tính hình tượng và nội dung tình cảm muốn truyền đạt hơn hình thức, thể loại của bài thơ. Thơ tự do như là thơ được thoát thân, thả cánh, bay cao như thể bay cao được, trải rộng như có thể bao trùm, không còn hạn chế, không còn gò bó, không còn giới hạn, và quan trọng nhất nó nói rằng, nếu bạn yêu thơ thì không ai không có thể làm thơ được.
(Theo Vi.wikipedia)