Là sinh viên, đang trên con đường trở thành nhà khoa học hoặc trở thành một thành phần trong công cuộc tạo ra tri thức mới, đọc bài báo sau, bạn cảm nhận và suy nghĩ như thế nào? Cùng chia sẻ nha!
"... Hoặc là khoa học nước nhà đang “có vấn đề”, hoặc là chức danh giáo sư chỉ là kết quả của quá trình “Sống lâu lên lão làng”
Năm 2004, đọc tiểu luận của NN đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học, ngoài việc đề xuất một hướng nghiên cứu theo tôi còn rất “mông lung”, NN còn đưa tới cho tôi một nỗi kinh hoàng, ấy là bài viết chỉ quảng 10 trang giấy mà kèm theo tới 53 trích dẫn và chú thích! Khiếp quá, đọc một tiểu luận tần đầy các trích dẫn theo lối “ông John” cho rằng, “bà Smith” từng viết, rồi ông “ốp” ông “ép” đã nói…, tôi không thể nắm bắt đâu là khám phá, quan niệm học thuật của NN và đâu là khám phá, quan niệm “nói theo”. Ngẫm lại, thấy cũng không nên trách cứ NN, vì nhiều bậc thầy của anh vẫn thường làm như vậy và nếu có quan tâm, thì nên thừa nhận NN đã lập một kỷ lục!
MÊ HỒN TRẬN CÁC TRÍCH DẪN
Có một sự thật không thể chối cãi được rằng, không rõ tự bao giờ, trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học xã hội- nhân văn ở nước Nam ta luôn luôn ngổn ngang các trích dẫn, đến mức đôi khi tiếp xúc một công trình, người đọc như bị lạc vào giữa “mê hồn trận” các trích dẫn, các ý kiến của người khác…
Có một sự thật không thể chối cãi được rằng, không rõ tự bao giờ, trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học xã hội- nhân văn ở nước Nam ta luôn luôn ngổn ngang các trích dẫn, đến mức đôi khi tiếp xúc một công trình, người đọc như bị lạc vào giữa “mê hồn trận” các trích dẫn, các ý kiến của người khác…
Với những công trình như thế, ý tưởng khoa học thật sự của tác giả và hiệu quả thực tế thật đáng nghi ngờ. Tôi đã đọc khá nhiều công trình của một vị giáo sư văn học, và nhận ra mỗi khi đề xuất một nội dung nghiên cứu, giáo sư đều dẫn lại ý kiến của một danh nhân, một nhà khoa học đã từng nói… “y chang” với những gì ông đang trình bày. Kỳ thú nhất có lẽ phải kể tới vô số công trình nghiên cứu Thơ mới, trong đó hầu như cứ bàn đến Xuân Diệu là người viết cố chứng minh Xuân Diệu “tha thiết, nồng nàn”, bàn đến Huy Cận là người viết cố chúng minh chàng Huy Cận “buồn”, thậm chí gần đây còn có một cuốn sách xuất bản chỉ nhằm để khẳng điịnh Nguyễn Bính “chân quê” …, tóm lại là người ta dành khá nhiều công sức và chữ nghĩa nhằm chứng minh điều mà cách nay hơn nửa thế kỷ, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nói rồi!
Gần đây trong một công trình nghiên cứu văn chương được quảng bá khá hoành tráng, khi đề cập các nhà thơ dân tộc ít người có vị giáo sư chỉ tiến hành một thao tác nghiên cứu duy nhất là liệt kê một dãy tên tuổi từ Y Phương đến Lò Ngân Sủn, rồi không đưa ra ý kiến cá nhân nào, ông dẫn lại nhận xét của Lâm Tiến để đánh giá. Khi những sản phẩm như vậy cũng được coi là công trình nghiên cứu thì, hoặc là khoa học nước nhà đang “có vấn đề”, hoặc là chức danh giáo sư chỉ là kết quả của quá trình “sống lâu lên lão làng”!
Ấy là chưa kể tới việc người ta trích dẫn theo kiểu “ăn theo”. Ông X trích từ cuốn sách A một đoạn (không rõ ông X có thực đọc hay không?); ông Y thấy hay hay liền trích theo ông X; đến lượt ông Z tiếp tục “dẫn lại” từ ông Y … Thế là trong tính lên tục của nó, đoạn trích từ cuốn sách A dược dẫn lại trong công trình của X,Y,Z … và người dẫn lại không phải đọc, không cần phải truy nguyên.Tình huống trên thường diễn ra với các giả kinh điển. Toàn tập của các ông đã xuất bản từ hàng chục đến vài chục năm, vẫn thấy có người dẫn lại từ những cuốn sách được xuất bản ở Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước.
Ấy là chưa kể tới việc người ta trích dẫn theo kiểu “ăn theo”. Ông X trích từ cuốn sách A một đoạn (không rõ ông X có thực đọc hay không?); ông Y thấy hay hay liền trích theo ông X; đến lượt ông Z tiếp tục “dẫn lại” từ ông Y … Thế là trong tính lên tục của nó, đoạn trích từ cuốn sách A dược dẫn lại trong công trình của X,Y,Z … và người dẫn lại không phải đọc, không cần phải truy nguyên.Tình huống trên thường diễn ra với các giả kinh điển. Toàn tập của các ông đã xuất bản từ hàng chục đến vài chục năm, vẫn thấy có người dẫn lại từ những cuốn sách được xuất bản ở Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước.
LƯỜI NHÁC TRONG LAO ĐỘNG TRÍ TUỆ
Dẫn lại, chú thích ý kiến của người khác trong các công trình nghiên cứu khoa học vốn là việc bình thường, trong từng trường hợp cụ thể đó là yêu cầu bắt buộc, nhưng khi sự trích dẫn, chú thích đã đạt đến tình trạng “lạm phát” thì tôi lại thiếu tin cậy vào tác giả. Buộc tôi phải đạt ra các khả năng:
Một, “ý tưởng” khoa học chỉ là “đồng dạng phối cảnh” với ý tưởng của người khác;
Hai, “ý tưởng” chưa đủ độ chín tác giả không đủ bản lĩnh, không dám chịu trách nhiệm về mình, cần được “bảo lãnh”;
Ba, tác giả chỉ là một người “thuộc bài”?
Xét đến cùng, ba khả năng trên đều có chung một nguồn gốc, ấy là khi nhà khoa học lười nhác trong lao động trí tuệ, tồi tệ hơn, là không có khả năng nghiên cứu khoa học. Tương tự như vậy, có thể đặt ra nhiều câu hỏi đối với các nhà khoa học được tin tưởng giao trọng trách “nghiệm thu” một công trình nào đó mà sau khi nghiệm thu nó lại bị dư luận phê phán. Họ không đọc? họ không có khả năng phân biệt đúng sai? Họ nể nang? Họ …? Phải chăng từ những khả năng trên đây vô số công trình nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn có kinh phí từ vài chục triệu đồng đến hàng tỷ đồng đã không được công bố để cho những người trong nghề tham khảo, học hỏi?
Nói thật đơn giản, để các phát minh khoa học, các công trình nghiên cứu có thể sinh tồn và hữu ích với hoạt động của con người, trước hết đó phải là sự giải đáp các câu hỏi liên quan trực tiếp đến lĩnh vực nào đó thuộc về tự nhiên - xã hội - con người, là sự nắm bắt các nhu cầu và tìm ra, xây dựng khả năng đáp ứng nhu cầu …
Như vậy, muốn đạt một câu hỏi, muốn nắm bắt một nhu cầu, từ nền tảng một tri thức nhất định, người nghiên cứu cần khảo sát cụ thể về thực tiễn, suy ngẫm, luận chứng và đề xuất…, nếu có “kế thừa” ý tưởng của người đi trước thì phải là sự “nâng cấp” chứ không phải là sự “nhai lại”. Nói cách khác, với nghiên cứu khoa học, người ta phải suy nghĩ từ “cái đầu” của chính mình chứ không phải từ cái đầu của người khác. Nếu yêu cầu đó trở thành một thước đo nghiêm cẩn trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam, liệu bao nhiêu công trình sẽ phải tự triệt tiêu từ “khoa học”. Câu trả lời xin dành cho các nhà khoa học, nếu như họ đủ tự trọng “tự vấn” về công trình của mình." (Nguyễn Hoà - Báo Thể thao & Văn hóa)
Để đăng bài này, chính mình cũng một lần nữa tự nguyện làm một nạn nhân của "nạn lạm phát trích dẫn" này. Cũng chỉ cách đây 2 ngày, mình đã nộp một bài thi với phần mở đầu cũng vô số những lời trích dẫn...
Trích dẫn chắc chắn là điều phải làm khi công bố một công trình nghiên cứu, nhưng cứ làm dụng thói quen này mà không thay đổi và từ bỏ, biết đến bao giờ những thành quả mình tạo ra mới thật sự là của chính mình???
